VỀ VĨNH HÒA ĂN BÁNH CHƯNG XANH
Có những món ăn của quê hương, ta không bao giờ quên được. Dẫu món ăn ấy ở quê khác, miền khác cũng chẳng thiếu gì. Hình dáng, cách làm cũng na ná nhau. Phải chăng khi ta rời bụng mẹ những món ăn quê hương đã có từ trong dòng sữa trắng ngần? Bởi vậy mà ta có đi năm châu bốn biển, ăn đủ thứ trên đời vẫn cứ muốn được về bên mẹ, ăn một khúc cá kho do chính tay mẹ nấu, ăn nồi canh tập tàng mẹ hái lá sau nhà, hay lục lọi trong chiếc làn chợ trưa bánh đa, bánh đúc.
Ngày anh em tôi còn bé, phiên chợ nào mẹ cũng bớt năm ba đồng để mua quà cho chúng tôi. Hôm thì xâu kẹo cà, kẹo kéo, hôm thì bánh mướt, bánh kê… Có một thức quà tôi không bao giờ quên được, đó là chiếc bánh chưng Vĩnh Hòa. Bánh nhỏ, được gói trong một lớp lá chuối xanh bắt mắt. Sau một buổi chăn trâu, cắt cỏ rạc chân, hoa mắt được mẹ chia cho lát bánh chưng mừng còn hơn được ăn cỗ giữa làng. Lớn lên một chút, đi học trường xa, hôm nào ở lại học cả ngày bữa trưa chúng tôi chỉ dám ăn một chiếc bánh chưng Vĩnh Hòa, giá một nghìn đồng tiền lẻ. Ăn xong bụng vẫn thòm thèm, nhưng quê nghèo lấy đâu ra nhiều tiền để ăn hai chiếc.
Rồi năm tháng cũng qua đi, tôi rời quê buôn ba tứ xứ, bỗng một ngày thấy trên tivi người ta phát phóng sự về làng nghề bún, bánh Vĩnh Hòa quê tôi, trong lòng trỗi lên bao cảm xúc. Vừa thương nhớ những năm tháng xa xưa. Vừa mừng vui vì chiếc bánh chưng một thời mình yêu thích đã vang danh muôn nẻo chợ người.
Thực ra, làng nghề bún, bánh Vĩnh Hòa, Hợp Thành đã có từ xa xưa. Vì Yên Thành là vùng quê lúa nước, những sản vật đi liền với gạo, nếp như bún, bánh mướt, bánh chưng hiếm khi vắng bóng ở những phiên chợ trong vùng. Theo những bô lão trong làng kể lại, có một giai đoạn làng nghề phải ngưng làm bánh bởi lương thực sản xuất theo mô hình hợp tác xã, tất cả là của chung, mỗi nhà chỉ được phân phát lúa gạo theo khẩu phần, không dôi dư để làm bánh. Sau đổi mới làng bánh được phục hồi, đến năm 2008 thì nơi đây được công nhận là làng nghề truyền thống.
Ở Yên Thành nhà nào cũng biết gói bánh tét, bánh chưng, nhưng chủ yếu chỉ làm vào những ngày Tết khi có thời gian dư giả và lượng bánh nhiều để dâng cúng ông bà tổ tiên. Ngày thường chủ yếu người dân mua bánh chưng từ làng nghề Vĩnh Hòa để ăn vừa nhanh, vừa tiện lợi. Vì vậy bất kỳ một góc chợ quê nào ở huyện lúa hiếm khi thiếu sự hiện diện của hàng bánh chưng Vĩnh Hòa.
Bánh chưng Vĩnh Hòa vừa dẻo vừa thơm. Nguyên liệu dùng để làm bánh xưa kia được tuyển chọn từ những loại lúa nếp nức tiếng quanh vùng. Giờ đây có thêm nếp Lào, nếp Thái. Gạo nếp ngâm vừa đủ giờ, vớt ra để ráo. Nhân bánh được làm từ đỗ xanh, lẫn vớt thịt ba chỉ tẩm ướp hành hoa, tiêu, mắm… Lá dùng để gói bánh là lá chuối và lá dong. Chiếc bánh gói xong được bắc lên lò đun liên tục trong 6 tiếng đồng hồ, sau đó đợi than tàn, nước nguội, bánh chín đều từ trong ra ngoài, vớt ra để cho ráo nước. Dùng tay sửa sang bánh cho vuông thành sắc cạnh, buộc lại lạt, kỹ hơn nên ép bánh bằng những vật nặng để bánh ráo và chắc khi ăn, không bị chua thiu khi để trong nhiều ngày. Theo những nghệ nhân lâu năm nơi đây thì không nên vớt bánh khi nước còn nóng, vỏ bánh sẽ bị cháy, bánh không xanh...
Mùa đông trong tiết trời se lạnh có lát bánh chưng xanh ăn với hành hao muối xổi vừa ấm bụng lại no lâu. Ngày giỗ, ngày tết thiếu đi chiếc bánh chưng xanh Vĩnh Hòa là như thiếu đi cái không khí của lễ lạt, sự ấm cúng của gia đình. Những nghệ nhân ở làng nghề bún, bánh Vĩnh Hòa cứ đời trước truyền dạy cho đời sau, từ cậu bé lên mười, đến chị em thanh tú, hay bà lão bảy mươi đều thoăn thoắt đôi tay để tạo nên những chiếc bánh chưng bắt mắt. Những ngày cận Tết âm lịch nơi đây như vào hội. Những chuyến xe ngược Bắc, xuôi Nam tấp nập đầy ắp những mẻ bánh còn xanh màu lá kịp đến mọi nhà trước lúc xuân sang.
Thật thiếu sót nếu bạn đã một lần về Yên Thành mà không ghé làng bún, bánh Vĩnh Hòa thưởng thức món bánh chưng. Ăn xong miếng bánh, cà kê bên bát chè xanh bạn sẽ được nghe những câu chuyện chân tình của người dân quê cần cù, lam lũ.
ĐẶNG THIÊN SƠN